Lịch sử Người_Tráng

Tiền lịch sử

Trong khi các nhà khoa học Trung Quốc tiếp tục đặt "ngôn ngữ Tráng-Đồng" vào hệ ngữ Hán-Tạng, thì các nhà ngôn ngữ học ngày nay đặt nhóm ngôn ngữ này vào hệ ngôn ngữ Tai–Kadai, với giả thuyết phổ biến nhất là có nguồn gốc Nam đảo, có thể khởi nguồn từ Đài Loan và dư cư về phía tây nam qua Trung Hoa ngày nay.[53]

Thời kỳ đế chế Trung Hoa

Các ghi nhận lịch sử sớm nhất về người Tráng được khám phá cho đến nay là Bích họa Hoa Sơn (花山壁画), có từ thời chiến quốc (475–221 TCN).

Có rất ít các ghi chép tiếng Hán trước khi người Hán xâm nhập vào khu vực người Tráng, sự ám chỉ đơn giản đến vùng đất phía nam sông Trường Giang là "Bách Việt" (百越). Những cuộc xâm lấn phương nam của Tần Thủy Hoàng được trình bày trong sử ký của Tư Mã Thiên. Cuộc tấn công lúc đầu vào vùng Lĩnh Nam đã tỏ ra thảm bại, với sự thất bại của tướng Đồ Thư trong trận đánh năm 218 TCN, nhưng công binh của ông, Sử Lộc đã hoàn thành việc xây dựng kênh Linh nối liền hai con sông Tương GiangLy Giang. Năm 214, Triệu ĐàNhâm Ngao quay trở lại và bình định tộc người Tây Âu, khai phá Quảng Tây và phía nam với sự nhập cư của hàng trăm nghìn người Hán.

Một thập kỷ sau sự sụp đổ của Nhà Tần, Triệu Đà sử dụng vị trí của mình với tư cách là quận úy Quận Nam Hải, lập nước Nam Việt và đặt thủ đô ở Phiên Ngung. Với giải pháp quy thuận và độc lập khỏi sự kiểm soát của Nhà Hán, vương quốc này đã mở rộng sự thực dân và Hán hóa bằng chính sách "hòa hợp bách việt" (和集百越) cho đến năm 211 TCN nhưng không được sự ủng hộ của người Tráng.

Nhà Hán đã giảm bớt quyền lực địa phương và lập các căn cứ quân sự ở Quế Lâm, Ngô Châu, và Ngọc Lâm. Cuộc nổi dậy ở Giao Chỉ do Hai Bà Trưng lãnh đạo bị tướng Mã Viện đàn áp năm 42, Mã Viện được ghi nhận với tư cách giúp bình định những vùng này bằng việc cải thiện hệ thống tưới tiêu và nhiều điều luật Hán.[54] Cuộc di cư của Người Dao từ vùng gần Trường Sa, Hồ Nam tới Quảng Tây ngày nay đã làm đảo lộn khu vực này.

Dưới thời Đường, người Tráng chuyển sang ủng hộ vương quốc Thái là Nam Chiếu ở Vân Nam, nước này đã đẩy lui hai cuộc tấn công của quân Đường năm 751 và 754. Quảng Tây khi ấy được chia thành hai vùng: một là vùng thuộc thế lực của người Tráng phía tây Nam Ninh và một là vùng thế lực của người Hán phía đông Nam Ninh.

Sau khi Nam Chiếu sụp đổ, Lưu Nghiễm thành lập nước Nam Hán. Nước này hầu như không thể kiểm soát được người Tráng, sau đó Nam Hán bị Tống đánh chiếm và sáp nhập năm 971.

Bị quấy rối bởi cả Tống lẫn Đại Cồ Việt, lãnh đạo Tráng tộc là Nông Trí Cao (侬智高) đã chỉ huy cuộc nổi dậy năm 1052, vì điều đó mà ông vẫn được người Tráng tưởng nhớ.[55] Họ Nông được ghi chép lại trong Tống Sử là giàu có về vàng, đông đúc về dân số "để tóc dài, cài áo sang phía trái. Chúng thích chiền đấu và xem nhẹ cái chết".[56] Quân Nông càn quét sang phía tây, chiếm Nam Ninh, bao vây Quảng Châu 57 ngày, và giết các chỉ huy của năm đội quân Trung Hoa được cử đi đánh họ.[57] Cuối cùng họ bị đánh bại và nhiều thủ lĩnh bị giết.[57] Các dòng họ không tham gia vào cuộc nổi dậy tham vọng này trở thành mục tiêu đồng hóa của Trung Hoa.[57] Một số tàn quân nổi dậy tẩu tán về quê cũ nơi họ bắt đầu cuộc khởi nghĩa.[57] Một số khác lẩn sâu vào vùng đồi núi. Các bộ tộc mang họ Nông và tự nhận là con cháu của quân nổi dậy định cư quanh vùng biên giới giữa Việt Nam-Quảng Tây-Vân Nam.[57] Một bộ phận khác vẫn mang họ Nông và ghi nhớ cuộc nổi dậy qua các câu chuyện truyền miệng sinh sống ở Sipsongpanna, Lanna (miền bắc Thái Lan), và Dehong.[57] Tiếng Lự, Yuan (phương ngữ miền bắc Thái Lan) và Dehong ở những khu vực này chứa các từ vựng và cấu trúc câu chỉ thấy ở người Tráng sống tại Quảng Tây.[57]

Nhà Nguyên-Mông thiết lập quyền kiểm soát với Nam Tống sau trận Nhai Môn năm 1279 và thôn tính nước Đại Lý ở Vân Nam. Thay vì việc cai trị vùng Lĩnh Nam như một lãnh thổ lệ thuộc, người Mông Cổ chấp nhận Quảng Tây như là một tỉnh chính thức, nhưng việc đưa người Miêu từ Quý ChâuHồ Nam vào đã làm vùng này bất ổn.

Khu vực này tiếp tục trở nên khó kiểm soát, nhà Minh đã sử dụng các nhóm dân tộc khác nhau để chống lại nhau. Một trong những trận đánh đẫm máu nhất trong lịch sử Tráng là tại Hẻm Mây Lớn chống lại người Dao 1465, nơi 20.000 người chết đã được ghi nhận.

Nhà Mãn-Thanh đã bỏ mặc khu vực này cho đến khi áp đặt quyền cai trị trực tiếp năm 1726. Thế kỷ thứ 19, khu vực này là một vùng bất ổn liên tục. Cuộc nổi dậy của người Dao năm 1831 được nối tiếp bằng Thái Bình Thiên Quốc năm 1850. Vụ các viên chức địa phương hành hình giáo sĩ Auguste Chapdelaine ở Quảng Tây đã gây ra chiến tranh nha phiến lần 2 năm 1858 và sau đó là sự can thiệp của Pháp vào Quảng Tây.

Thời hiện đại

Bình An, một ngôi làng của người Tráng trên Ruộng Bậc Thang Long Thắng

Sau Khởi nghĩa Vũ Xương, Quảng tây ly khai khỏi đế chế Mãn-Thanh ngày 6 tháng 11 năm 1911. Tuần phủ Thanh là Thẩm Bỉnh Khôn, lúc đầu vẫn tại vị, nhưng sau đó bị loại bỏ bởi một cuộc binh biến do tướng Lục Vinh Đình chỉ huy. Cựu Quế Hệ (舊桂系) của tướng Lục đã vươn ra Hồ NamQuảng Đông và giúp chống lại nỗ lực tái lập lại chính phủ đế quốc của Viên Thế Khải trong cuộc Hộ quốc chiến tranh (护国战争). Lòng trung thành của người Tráng đã làm Quân chính phủ tự trị của ông vững mạnh nhưng miễn cưỡng di chuyển ra xa các tỉnh của mình. Sau đó, mối hiềm khích với Tôn Dật Tiên dẫn đến thất trận năm 1920 và 1921 trong Chiến tranh Việt Quế (粵桂战争). Sau thời gian chiếm đóng ngắn bởi lực lượng Quảng Đông của Trần Quýnh Minh, Quảng Tây rơi vào chia rẽ và cướp bóc nghiêm trọng trong vài năm[58] cho đến khi Quân bình định Quảng Tây của Lý Tông Nhân lập ra Tân Quế Hệ (新桂系) do Lý, Hoàng Thiệu HoànhBạch Sùng Hy đứng đầu.

Trận đánh thắng lợi ở Hồ Nam chống lại Ngô Bội Phu dẫn đến quân bình bịnh Quảng Tây của người Tráng được gọi là "quân thần tốc" và "quân thép". Sau cái chết của Tôn Dật Tiên, Lý còn đánh lui cuộc biến loạn của Đường Kế Nghiêu trong chiến tranh Vân Nam-Quảng Tây và tham gia chiến tranh Bắc Phạt thiết lập sự kiểm soát của phe Quốc Dân Đảng với các tướng quân phiệt khác. Quân của ông là một trong số ít đơn vị Quốc Dân Đảng không bị ảnh hưởng của cộng sản và vì vậy được Tưởng Giới Thạch sử dụng trong Cuộc thảm sát Thượng hải năm 1927.

Sau mối bất hòa với Tưởng, Lý đã tham gia vào cuộc nổi loạn của Diêm Tích Sơn trong cuộc Trung Nguyên Đại Chiến tháng 5 năm 1930. Sự bại trận của ông đã không loại bỏ ông khỏi sự kiểm soát Quảng Tây, với Sự cố Mãn Châu và cuộc xâm lược của Nhật Bản đã ngăn cản Tưởng và phe Cộng sản loại bỏ ảnh hưởng của ông cho đến năm 1949. Trong chiến tranh thế giới thứ 2, Quảng Tây là một mục tiêu chính cho các cuộc tấn công của Nhật Bản. Chiến dịch Ichi-Go năm 1944 thành công đã mở rộng sự kiểm soát của Nhật Bản dọc tuyến đường sắt qua Quảng Tây vào Đông Dương thuộc Pháp, nhưng tuyến đường này vẫn bị tấn công liên tục bởi các máy bay ném bom Mỹ và nhóm bán quân sự người Tráng dưới quyền Bạch Sùng Hy.

Trong lịch sử Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa hiện đại, vào ngày 05 tháng 03 năm 1958, tỉnh Quảng Tây được đổi thành Khu tự trị Quảng Tây. Vào ngày 12 tháng 10 năm 1965, được phê chuẩn bởi Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Khu tự trị Quảng Tây được đổi tên thành Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, tự trị người Tráng. Từ năm 1979 đến 2020, có bảy người Tráng giữ cương vị Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, tương ứng với Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân quản lý hành chính Quảng Tây.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Người_Tráng http://chl-old.anu.edu.au/publications/csds/csds20... http://www.rauz.net.cn/ http://www.360doc.com/content/12/0813/22/276037_23... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/116698 http://www.doc88.com/p-644582398739.html http://yn.dongxingnet.com/index.php?m=content&c=in... http://www.ethnologue.com/language/zha http://lingweb.eva.mpg.de/numeral/Zhuang-Fuping.ht... http://www.academia.edu/3554295/The_Biography_of_t... http://www.academia.edu/3659357/Tai_Words_and_the_...